Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục-tục kéo thợ cầy đến đoạn đường phía trong điếm tuần. Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy mái hiên cườm cượp nhòm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái cộc bươu đầu choáng óc, nếu họ quên không
- Mẫu Thượng ngàn chia thành 15 phần (mỗi phần có nhiều tiết nhỏ): Người trở về - Nhụ và Điều - Đồn điền Messmer - Họ Vũ, họ Đinh - Pierre và Julien - Người cổ Đình - Bà cô Tổ - Philippe Messmer - Con chim cu cườm - Đối thoại - Bà ba Váy kể chuyện - Tai hoạ
Cườm:Cái này là quan trọng nhất trong tướng con chim ( bởi thế người ta mới gọi là cu cườm) nó là đại diện cho nước non của con chim gáy, nếu chim có cườm thẳng hàng thì có nước rước. nhưng về nước khuya thường hay bỏ vẹt….Cườm lộn xộn không hàng ngũ thì có
Phân biệt cu gáy trống mái. Hãy quan sát đồng tử phần màu đen trong mắt của cu gáy, nếu chúng nhỏ và mờ thì là cu gáy trống, còn to và đậm màu thì là chim mái. Con trống thường có thân mình to lớn hơn con mái. Con trống có đầu vừa to vừa không được tròn trịa, lông thì có lấp lánh màu xanh.
dế mun gáy te te vào tháng ba nắng cháy trên đất cày . Ở ổ cu cườm vừa mới đẻ hai trứng bằng ngón chân cái, trên cái ổ lót bằng cỏ chỉ lưa thưa . Những bụi nưa rừng với cối bằng đồng như cho cau trầu trong cối nát ra, cái miệng nho
cash. Chim Cu gáy hay còn gọi là chim Cu, đây là loài chim cảnh thường gặp ở các vùng quê, nông thôn Việt Nam. Ở đâu có ruộng đồng thì ở đó chim Cu gáy đều sinh sống. Loài chim Cu gáy sống dựa vào con người, bởi thức ăn chủ yếu của loài chim này là thóc, gạo, đậu, mè, … những nông sản của người nông dân. Chim Cu gáy thường sống ở các vùng thôn quê Việt Nam 1. Chim Cu gáy khá đa dạng về chủng loại Cu cườm Hay còn gọi là cu đất, cu ma, ở cổ có cườm. Cu ngói Cu ngói có thân hình nhỏ con hơn cu cườm, cổ không có cườm mà thay vào đó là một vạch đen quanh cổ, toàn thân có màu hung đỏ. Cu xanh Còn gọi là Cu rừng, vì chúng chỉ sống ở rừng. Cu Xanh thì toàn thân lông màu xanh lá cây, thân hình cũng lớn bằng Cu Gáy. 2. Ngoại hình của chim Cu gáy Chim cu gáy khi trưởng thành rất khó để phân biệt trống mái, bởi chúng đều gáy, gụ nhau và ngoại hình tương đối giống nhau. Nếu tinh ý, hay để ý kỹ bạn sẽ thấy chim trống và chim mái vẫn có một số điểm khác biệt giúp chúng ta nhận biết được chim trống chim mái. Phân biệt chim trống chim mái Vòng tròn đen của con trống nhỏ hơn và sáng hơn con mái. Lông trên trán của con trống sáng hơn con mái. Con trống to khỏe hơn, đầu cu gáy trống to và trông khá cục mịch, còn chim mái thì nhỏ và tròn hơn. Chân của chim trống to và tròn hơn chim mái. Xương dưới bụng 2 xương ghim gần phao của chim mái rộng hơn chim trống. Đặc điểm nhận dạng một chú chim Cu gáy quý Chim Cu Gáy hình dáng như một chú bồ câu sẻ, cổ có cườm bao hết vòng giáp cổ thì gọi là “cườm liên hoàn”. Cườm liên hoàn thì vô cùng quý hiếm, vài trăm con mới có được một con. Lông chim có màu xám hồng ở phần đầu, ức và bụng. Phần gián cánh lông màu đen và trên cánh có những vệt đen nhỏ tạo thành những đốm vảy quy trên cánh. Đặc điểm nhận dạng một chú chim Cu gáy quý Nhưng với một chim Cu thuộc vào loại tốt nhất mà người sành điệu lựa nuôi thì phải có những điểm đặc biệt sau Nhất Huỳnh kiên Tức là chim có cườm màu vàng. Cườm này phải xuống tận vai nhưng không đóng ở trên lưng. Dĩ nhiên loại chim này hiếm khi được gặp. Nhì Liên giáp Tức là hình dáng của chim giống như một cái bắp chuối, hai đầu nhỏ, giữa phình ra, trông rắn chắc, gọn chặt. Tam Quá khóe Có cái chỉ màu đen chạy dưới khóe mắt, dài quá khóe mắt một chút mới tốt. Tứ Chân khô Có nghĩa là chân chim phải vuông cạnh và khô. Vảy đóng hai hàng trơn, đóng chặt, nổi mốc lên. Ngũ Liên hoàn Cườm phải đóng giáp vòng hết cổ mới thật tốt. Thường thì chim chỉ có cườm đóng ở phần trên cổ mà thôi, phần ức không có cườm. Lục Cườm rựng Tức là có cườm lót. Chim mà có cườm dựng là chim có gù hậu, tức là gáy dai dẳng. Tất cả những con chim Cu nào có một trong những đặc điểm trên đây đều thuộc loại chim quí hiếm, dùng làm Cu mồi rất tốt. Tuy nhiên, ngoài những giống quý hiếm trên thì ta cũng nên chú ý tới một số đặc điểm sau đây Chim Cu gáy đuôi vót, tức là bắp đuôi lớn, chóp đuôi nhỏ lại thì đây là một con chim khôn. Chim Cu gáy có cánh gián có lông trắng hay mơ ở một hoặc hai bên cánh đây là một chú chim tốt. Chim Cu gáy có móng trắng thường được gọi là “bạch đề” chỉ cần một hoặc nhiều móng là một chú chim cực quý. Chim Cu gáy trống có mỏ đỏ thường được gọi là chim “sát thủ” mang đi đấu hoặc bẫy rất tốt…. Xem thế đủ thấy chọn một con chim Cu Gáy thật hay cũng khó khăn như chọn một gà chọi đá độ. Chọn gà nòi người ta cũng chọn đầu, cổ, lưng, lườn, ghim, chân, vảy, móng, đến cánh gà, đuôi lao… Con chim Cu gọi là hay là con chim dùng để làm Cu mồi. Giống Cu gáy mồi thì hung hăng ham đấu đá, vì vậy mấy con khác mới thi nhau sa vào bẫy rập của người bẫy Cu. Giọng gáy của chim Cu gáy Người không rành về chim cảnh nói chung và chim Cu nói riêng thì cứ tưởng rằng giống chim này chỉ có một giọng buồn tẻ là lúc nào cũng gáy Cúc cu cu … mà thôi. Chính vì hiểu sơ sài như vậy nên người ta mới băn khoăn tự hỏi tại sao lại có người chịu khó nuôi chim Cu cho uổng công tốn lúa như vậy. Chẳng lẽ trên đời này không có chim nào hót hay hơn để chọn nuôi hay sao? Sự thực thì Cu Gáy có nhiều giọng, mà chỉ có người rành rẽ về chim Cu mới biết rành rẽ mà thôi. Chim Cu gáy có khoảng 5 giọng gáy khác nhau Giọng trơn Cúc cu cu mỗi lần gáy chỉ thốt lên 3 tiếng đơn giản cụt ngủn. Giọng một Cúc cu cu…cu có thêm một tiếng cu hậu ở đằng sau nghe hay hơn. Giọng hai Cúc cu cu… cu cu có thêm hai tiếng cu hậu ở đằng sau nghe càng hay hơn. Giọng ba Cúc cu cu… cu cu cu có thêm ba tiếng cu hậu ở đằng sau nghe càng hay hơn nữa. Ở đâu mà có con Cu rừng hót hay như thế này thì dù có xa xôi đến mấy người gác Cu cũng mò đến bắt cho bằng được, vì đây là chim quí khó tìm. Giọng cà lăm Con chim này gáy giọng lúc thế này lúc thế khác, tiếng nọ xọ tiếng kia nghe không ra làm sao cả. Cũng như cách nói chuyện của người bị bệnh cà lăm vậy, chim này chỉ có đem thịt mà thôi. Nghe giọng chim Cu gáy xong ta còn phải tìm hiểu xem cái âm của nó hay dở ra sao nữa. Đây là một việc cực kỳ khó khăn mà chỉ những người lão luyện trong nghề mới phân tích được kỹ càng, dù là tai họ chỉ mới nghe phớt qua. Còn người mới vào nghề thì chắc chắn không tài nào hiểu nổi. Giọng chim Cu gáy có 4 âm chính Âm thổ Chim gáy có âm thổ thì giọng trầm. Loại chim này được đánh giá là loại chim khôn nhất. Trong âm thổ có 4 âm sau đây + Thổ đồng Âm trầm mà ngân vang như tiếng chiêng cồng. + Thổ bầu Âm trầm mà ồm ta lên + Thổ sấm Âm trầm mà rền như tiếng sấm + Thổ dế Âm trầm mà rỉ rả nỉ non như tiếng dế Âm đồng Chim gáy có âm đồng thì tiếng ngân vang. Âm đồng cũng có nhiều loại như sau + Đồng pha thổ Âm ngân vang nhưng lại trầm trầm + Đồng pha son Âm càng lúc càng ngân vang + Đồng pha kim Âm càng lúc càng nhỏ nhưng vẫn vang xa Âm son Chim gáy có âm son có người gọi là âm chuông vì giọng chim ngân vang như tiếng chuông rền, nghe có vẻ hùng tráng oai vệ. Âm son cũng có nhiều loại như + Son pha đồng Âm to mà rền vang như tiếng sấm + Son pha kim Âm khởi đầu rền vang như tiếng chuông ngân sau cứ nhỏ dần… Âm kim Chim gáy có âm kim thì tiếng nhỏ và vang xa. Âm kim cũng có nhiều loại như + Kim pha son + Kim pha thổ + Kim pha đồng Điều đó đủ cho ta thấy muốn phân tích một giọng chim Cu gáy thật chính xác không phải là chuyện dễ dàng. Ai hiểu thấu đáo được điều này chắc chắn người đó sẽ gặp nhiều điều thú vị khi lắng tai nghe chim đang gáy. Đến đây, chắc chắn chúng ta không còn ngạc nhiên nhiều khi biết tại sao người ta lại có thể say mê nuôi một con chim có bề ngoài không sắc sảo này đến thế. Chúng ta có thể cảm thông được về sự mê luyến cao độ của người nuôi chim đối với con chim quí hiếm của mình. Vì rằng, chọn được một con chim mồi vừa ý có những đặc điểm ưu việt kể trên đâu phải là chuyện dễ. Đôi khi trăm con, hoặc ngàn con mới có một. Chắc gì trong một đời người có thể chọn cho mình được một hoặc hai con mà nuôi? Do đó, giá trị con Cu gáy mồi tốt nhất cũng độ nửa lượng vàng nhưng người ta vì quá quý trọng nó đến nỗi có người dù nghèo nhưng ai mua với giá nào cũng không bán, thề “sống nuôi chết khôn”, đôi khi còn dám đem thân mình bảo vệ con chim. 3 Tập tính ăn uống của chim Cu gáy Đặc tính ăn uống của chim Cu gáy Thức ăn cho chim bao gồm ngô, thóc, vừng, thức ăn chính vẫn là thóc lúa nhưng thêm hạt kê, đỗ xanh, hạt lạc… Chim Cu gáy trong thiên nhiên ăn đất và đất núi lửa đất đỏ đôi khi liếm muối để bồi dưỡng chất dinh dưỡng, chúng ăn sạn để nghiền nát thức ăn nhất là những hạt già và cứng. Chim cu cần chất vôi để tạo vỏ trứng và sú thức ăn cho chim con, cho việc sinh sản và tạo xương của chúng. Chim cu mái sẻ lấy chất vôi từ xương chúng để cung cấp đủ cho con cái, than củi giúp tiêu hóa và sạn giúp nghiền nát hạt trong mề của chim cu. Chim cu thường hấp thụ những khoáng chất vi lượng từ thức ăn. 4 Tập tính sống của chim Cu gáy Chim Cu gáy sống từng đôi, một trống một mái theo chế độ đơn thê, gắn bó chung thủy, cu gáy là giống kén bạn tình, chim cu Gáy có cách sinh hoạt, tha rác làm tổ, tìm kiếm thức ăn, ấp trứng, bón thức ăn cho con giống như chim bồ câu do chúng cùng một họ. Chúng đi ăn từng đàn, có lãnh thổ riêng, có một con trống có dáng hình đẹp, có tiếng gáy tốt là con chim lãnh chúa. Khi vùng lãnh thổ riêng bị xâm phạm, nó sẽ ra hiệu bằng âm thanh lao rồi vào chiến đấu. Người săn lợi dụng đặc điểm này để bẫy chim cu gáy. Chúng bắt đầu trưởng thành và sinh sản vào khoản 5 tháng tuổi. Mỗi năm, một cặp chim cu bố mẹ thường đẻ 8 đến 9 lứa, mỗi lần cho ra 1 đến 2 quả trứng, 10 ngày sau khi trứng nở chim mẹ sẽ tiếp tục đẻ lứa khác. Khi gù đấu gù chào thì con trống sẽ gù đấu. Khi con bạn tình xuất hiện, thì con trống sẽ gù sát đất gù cái đầu thấp với con mái nhiều lấn, còn con mái thì hầu như không gù, trừ khi trong đàn toàn mái và không có con trống. Con trống gáy to tiếng hơn, con mái rất im lặng và khi con mái gù sẽ có âm sắt cao hơn con trống. Chim cu cườm chịu nhiệt rất kém. Khi nhiệt độ hạ xuống 10 độ C chim cu sẻ bị cú rũ. Trong thiên nhiên khi chổ ngủ bị đe dọa chúng sẽ hoảng sợ bay lên để thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm của chúng. Thỉnh thoảng chim trong nuôi trong lồng cũng bị hoản sợ ban đêm. Sự việc xảy ra khi chim cu ngủ những nơi rất tối hay là những con chim mới. Chim cu nhìn đêm tối rất kém nên chúng dễ bị hoảng sợ, khi chúng nghe ồn ào và chúng sẽ nhảy, chim cu hoang rất sợ bóng người. 5. Kỹ thuật chăm sóc Cu gáy trong điều kiện nuôi nhốt Cách nuôi chim Cu bổi Chim mới bẫy về gọi là chim bổi. Chim bổi thì rất nhát gặp người đến gần thì hốt hoảng bay tán loạn cả lên, cho nên chim bị bể đầu sứt trán, rụng lông từng chùm là chuyện thường tình. Vì vậy, nuôi Cu bổi ta cũng phải có phương pháp riêng để chim khỏi chết một cách đáng tiếc. Nuôi chim Cu gáy tại nhà Chim mới bẫy về, đi đường đói khát, nên về nhà ta đút cho nó ăn vài ba hột bắp nhỏ hoặc năm bảy hột lúa và cho uống nước để chim “tỉnh hồn lại vía” đã. Đó là cách giúp chim tiếp tục sống để thuần dưỡng. Sau đó ta nhốt chim bổi chung chuồng với các chim bổi cũ thường thì người đi gác chim có một cái lồng lớn để nhốt tất cả chim bổi cũ mới vào để thuần dưỡng cho tiện, và cũng để lựa dần những chim tốt ra nuôi, chim xấu làm thịt. Chim mới thấy chim cũ lại cóng ăn mồi, nó cũng bắt chước đến ăn. Ta cứ cho chim sống như vậy cho quen dần nếp sống tù túng để cho chim dạn dần. Sau đó, lựa con chim nào tốt tướng, dữ dằn thì bắt ra nuôi riêng. Trong trường hợp nhà không có chim bổi cũ, chỉ có một con bổi mới, thì việc trước tiên là ta cũng phải đút bắp lúa cho chim ăn để khỏi mất sức rồi mới nhốt vào lồng nhỏ. Người ra nuôi chi Cu gáy trong một loại lồng nhỏ đặc biệt bằng mây hay tre, hình dáng giống như trái bí rợ. Lồng tuy chật chội nhưng lại thích hợp với loài Cu gáy vì Cu gáy đứng đâu chỉ đứng yên một chỗ chứ không bay nhảy tứ tung như các loại chim khác như chim chào mào, chim vành khuyên, chim chích chòe… Do đó, nhốt chim trong lồng lớn lại không ích gì. Nuôi Cú Gáy trong lồng nhỏ có điều lợi là chim bổi thì mau thuần, mà chim đã thuần thì mau sung. Nuôi chim mà lúc nào cũng sung cũng gáy, thử hỏi ai lại không thích phải không ạ! Kỹ thuật thuần dưỡng chim Cu bổi Chim bổi bắt về, ta nhốt vào lồng, bên ngoài nên phủ áo lồng cho chim đỡ sợ, bên trong để cóng nước, cóng lúa, cóng khoáng hay đất cho chim ăn được vài ngày. Xong đâu đó, ta treo lồng vào chỗ yên tĩnh để chim bớt sợ hãi. Sau đó, cứ vài ba ngày, ta thăm lồng một lần, mỗi lần như vậy nhớ châm thêm nước và thức ăn cho vài ngày tới. Công việc thuần dưỡng chim, ta cứ từ từ mà làm, muốn gấp gáp cũng không thể được. Vì chim bổi mau thuần hay không một phần là do ở mình, mà một phần cũng do ở chim. Có nhiều con chim dạn đến nỗi chỉ bắt về một vài hôm đã gáy trong lồng, tiếng gáy như chuông rền có vẻ thách thức chim khác. Nhưng cũng có nhiều con nuôi đến ba năm mà chưa… mở miệng ! Nuôi những con chim khó “nổi” này rất chán, tuy nhiên người nuôi vẫn hy vọng rằng hễ “có tật thì có tài”, những con chim như vậy khi đã nổi thì không chê vào đâu được. Nuôi chim Cu muốn mau nổi, thường ta nuôi trong nhà vài ba con trở lên. Con treo nhà trước, con treo nhà sau, hoặc con treo trên lầu, con treo dưới lầu. Trong trường hợp nhà ở chật chội không đủ chỗ treo lồng, thì ta vẫn có thể treo gần nhau, nhưng những con xen kẽ ta phải trùm lồng kín mít để chúng chỉ nghe tiếng gáy mà không trông thấy nhau. Đôi khi, treo như vậy chim lại mau sung vì chúng cũng như loài gà, tức nhau vì tiếng gáy. Thỉnh thoảng, người nuôi chi Cu Gáy cũng cho hai con “kè” nhau một chút cho chúng hăng lên. Chim khi đã sung thì lúc nào cũng năng nổ, hễ người nuôi búng tay là gáy, hoặc vừa nghe chim khác nổi một vài hậu là nó cũng tức khắc hăm hở trả lời, tỏ ra ta đây không chịu thua sút một ai! Lưu ý Cũng xin được nhắc thêm, chim nuôi mãi trong lồng thì lông đuôi dài sẽ vướng víu. Vì vậy, chủ nuôi cứ vài tháng một lần, nhớ hớt bớt lông đuôi, lông cánh để chim xoay xở dễ dàng trong chiếc lồng vốn chật, khỏi gãy đuôi xơ cảnh, mất thẩm mỹ. Kỹ thuật chăm sóc chim Cu gáy Việc chăm sóc cho chim Cu không có gì khó khăn vất vả. Ta chỉ vệ sinh lồng cho sạch sẽ, cho ăn uống đầy đủ là được. Với con chim suy, mỗi tuần ta nên cho uống hai lần, mỗi lần một viên dầu cá. Và chỉ cần uống một tuần là đủ. Nếu muốn cho uống lại thì nên để đến tháng sau. Nuôi chim Cu, thường ta thấy chúng bị hai thứ bệnh Đó là bệnh đau mắt và bệnh tiêu chảy. Với bệnh đau mắt thì người chuyên môn có một lối trị riêng người ta đâm vài trái ớt hiểm, môi vào hai đầu cánh và bôi ngay vào mắt chim, con chim xót mắt, cạ mắt vào đầu cánh gặp ớt lại xót thêm. Nhưng khi ớt hết cay thì chim lành mắt. Riêng đối với bệnh tiêu chảy thì ta có thể dùng thuốc Terramycine loại dùng cho gà, pha vào nước cho chim uống vài ngày là khỏi. Điều cần nhắc nhở thêm là trong lồng Cu Gáy bao giờ cũng phải có cóng khoáng chất. Loại chim này rất thích ăn khoáng, thiếu không được. Xin xem thêm bài nói về công thức chế biến khoáng chất ở phần cuối sách. Người ta thường lấy đá ong cà nhỏ thế khoáng cho chim ăn. Tóm lại, chim Cu Gáy dễ nuôi, ít tốn kém lại ít công chăm sóc. Tiếng gáy của chim không réo rắt như chim Họa Mi, không véo von như chim Chích Chòe, không lanh lảnh như chim vành khuyên nhưng cũng mang cho mình một sắc thái riêng, khiến người nghe quen tai ai cũng si mê.
Chim cu gáy là loài chim cảnh khá phổ biến. Tuy nhiên đa phần người nuôi hiện nay mới chỉ tập trung vào nuôi cu gáy trống, chưa chú trọng đến kỹ thuật nuôi cu gáy mái sinh sản, khiến tỉ lệ trứng nở và con non sống sót không cao. Bài viết dưới đây, Thú Kiểng sẽ giới thiệu tới anh chị em chơi chim chi tiết kỹ thuật nuôi cu gáy sinh sản, và cách chăm sóc chim cu gáy non. >>>>>>>>>>>>>>>>>>Mời bạn xem thêm Cách nuôi chim cu gáy nhanh nổi. Thức ăn cho cu gáy mau nổi Hãy quan sát đồng tử phần màu đen trong mắt của cu gáy, nếu chúng nhỏ và mờ thì là cu gáy trống, còn to và đậm màu thì là chim mái. Con trống thường có thân mình to lớn hơn con mái. Con trống có đầu vừa to vừa không được tròn trịa, lông thì có lấp lánh màu xanh. Ngược lại đầu con mái vừa nhỏ lại vừa tròn, lông thì thường màu xám. Ức chim cu gáy trống to hơn, nhìn “lực lưỡng” hơn con mái. Cườm ở phần cổ thường có màu đậm, rõ hơn nếu là con trống, con mái thì nhạt màu hơn. Mỏ và mũi chim trống to, cao hơn chim mái Phần chân thường chim trống dài và rắn hơn, khỏe hơn, to hơn con mái. Một trong những điểm dễ phân biệt là phần lông phía đuôi của chim cu. Nếu là con trống, lông ở phần sừng thường có màu tối thường là xám đen. Nếu là con mái thì là màu sáng thường là màu trắng. Ngoài ra, có thể quan sát khi chim đang đứng, nếu lông nằm ngang thì là con mái, hướng xuống thì là trống. Kiểm tra phần xương chậu của chim, nếu là con trống khoảng cách vùng xương này sẽ nhỏ, ngược lại nếu là mái chúng sẽ có khoảng cách to hơn vì chúng phải sinh sản. Quan sát nếu chúng hay gù thì là con trống, nếu không hay ít gù thì là con mái. Nếu chúng không ngừng hoạt động, hay có những biểu hiện như khiêu khích “đối thủ”, hung hăng thì đích thị nó là con trống. Về chất giọng, con trống thường gáy to hơn con mái, giọng hay hơn, luyến láy nhiều hơn. >>>>>>>>>>>>>>>>>>Mời bạn xem thêm Giá chim cu gáy các loại. Địa chỉ mua bán chim cu gáy ở Việt Nam Trên đây là một số điểm khác biệt đã được đúc kết từ nhiều nghệ nhân có dày dạn kinh nghiệm trong việc nuôi và chăm sóc chim cu gáy. Sau khi đã phân biệt được con trống mái, bạn có thể sử dụng chúng cho đúng mục đích. Đối với chim trống bạn có thể dùng để dùng làm chim mồi, để đá, giao đấu. Còn chim mái có thể dùng để sinh sản. Vậy kỹ thuật nuôi cu gáy sinh sản có khó không? Chăm sóc cho cu gáy mái đẻ Cần phải chuẩn bị tổ đẻ cho chim. Tổ có thể tận dụng các vật dụng trong nhà như rổ, rá bằng nhựa hoặc tre. Dùng rơm hoặc xơ dừa, cơ mướp … để ở dưới tổ. Đặt tổ ở nơi yên tĩnh, đủ nhiệt độ để chim ấp. Tuyệt đối không sờ vào trứng, vì như thế chim sẽ nghe thấy mùi lạ và chim sẽ bỏ không ấp nữa. Số lượng trứng đẻ mỗi ngày ít hơn so với gà, trung bình khoảng 2 – 3 ngày/2 trứng, thời gian ấp khoảng 2 tuần, 9 – 10 lứa/năm. Với loài cu gáy này, cả con trống và con mái cùng ấp. Trường hợp, con mái bỏ ấp 2 – 3 ngày thì nên không nên cho chúng ấp nữa, mà chăm sóc chúng bằng cách cho chúng ăn theo khẩu phần ăn như quy trình. Có như thế chúng mới nhanh sinh sản lại thông thường là khoảng 5 – 6 ngày. Thời gian chim sinh sản vẫn cho chúng ăn cám như bình thường. Có thể bổ sung thêm canxi bằng cách nghiền nát vỏ trứng trộn vào thức ăn cho chúng ăn hàng ngày. >>>>>>>>>>>>>>>>>>Mời bạn xem thêm Cách nuôi chim chào mào siêng hót. Cách chọn chào mào bổi hay Chăm sóc chim cu gáy con Cu gáy con từ lúc mới sinh cho đến khoảng 5 ngày tuổi cần phải được quan tâm chăm sóc cẩn thận. Vì thời gian này chúng chưa tự ăn được, do đó bạn phải mớm thức ăn cho chúng, liều lượng ít chia ra 2 – 3 lần/ngày. Nước cung cấp cho chim lúc nào cũng phải đầy đủ. >>>>>>>>>>>>>>>>>>Mời bạn xem thêm Địa chỉ mua bán chim họa mi trên cả nước. Giá chim họa mi hiện nay Thức ăn giai đoạn này chủ yếu là gạo, thóc và một số loại thức ăn khác. Sau khoảng 1 tuần, nếu chim con đã tự ăn được thì có thể cho ăn từ 3 – 4 lần/ngày, không cần nhai thức ăn ra nữa. Sau khoảng 3 tháng, hãy vặt hết phần lông đuôi của chúng. Giai đoạn này hãy bổ sung các loại thức ăn như mè vừng, các loại đậu, … để bồi dưỡng cho chim nhanh nổi.
l> Đặc điểm phân biệt cu gáy trống mái - Phân biệt cu gáy cườm dựng, cườm giắt và sa cườm - 10506 - Cu Gáy & phụ kiện Bạn đang xem Cách phân biệt chim cu gáy trống, chim gáy mái Trong các loại chim hót rừng, Cu gáy là giống khó phân biệt giới tính nhất. Nhiều người nuôi Cu thuộc loại “cha truyền con nối” nhưng nói về kinh nghiệm để phân biệt trống mái Cu gáy thì… đành chịu. Nghĩa là họ cứ nuôi cầu may, hễ nuôi một thời gian, thấy con nào có tài gáy hay, gù nhiều thì chọn con đó mà nuôi mãi. Tất nhiên, chim nào gáy dở thì loại bỏ, thả nó vào rừng để sinh sản tiếp…Khổ nỗi, Cu gáy nhìn bề ngoài thì chim trống mái gần như không khác gì nhau giống từ hình dáng, đến sắc lông vòng cườm ở cổ, và ngay cả giọng gáy cũng không khác gì Cu mái cũng gáy như Cu trống, mà bản tính hung hăng háu đá của chim mái có khi còn dữ tợn hơn cả chim Cu trống nữa. Vào những tháng đầu mùa sinh sản của Cu gáy, những chim Cu mái đang rựng trứng sắp đẻ tỏ ra hung hăng ghê lắm. Hễ gặp chim lạ bất kể trống mái léo hánh đến gần lãnh địa làm tổ của nó là mái liền bay tới đánh đuổi ngay!Nếu gặp Cu mồi gáy giục, Cu mái cũng gù cũng gáy đáp lại, và nó chính sà vào bẫy rập trước tiên. Nhiều người đi gác chưa kinh nghiệm, cứ tưởng là mình vớ được con Cu trống “ngon lành” không ngờ đó lại là chim mái. Chính những tháng đầu mùa mưa, cũng là đầu mùa sinh sản của Cu gáy, người ta bẫy được chim Cu mái nhiều hơn Cu trống là vì mùa sinh sản trở đi, chim Cu mái bớt hung hăng, do phải nằm tổ ấp trứng rồi phải vất vả kiếm mồi nuôi con nên sức khỏe của nó suy yếu, và lúc này đi bẫy chim người ta mới bẫy được Cu trống nhiều phân biệt giới tính của giống chim này, nhiều nghệ nhân nuôi Cu gáy lâu năm có những nhận xét sau đâyĐẶC ĐIỂM CỦA CU GÁY MÁISo với chim trống, đầu chim mái hơi nhỏ hơn và hơi dẹp, mỏ nhỏ, mình thon nhỏ, ức hẹp, hai ghim ở hậu môn hở ĐIỂM CỦA CU GÁY TRỐNG– So với chim mái, đầu chim Cu trống to hơn, mỏ to hơn, thân mình lớn hơn, vai nở, ức nở, hai ghim ở hậu môn hơi kinh nghiệm của chúng tôi thì những nhận định trên đây có những điểm đúng và cũng có những điểm không đúng. Nếu đặt hai con chim trống mái gần nhau thì quả thật hình dáng chúng có khác nhau thật. Trước hết ta thấy– Cu gáy mái có thân hình nhỏ hơn chim trống khoảng một tám một mười thường là vậy, nhưng cũng có con mái thân mình đẫy đà không thua gì chim trống.– Vai và ức chim mái hẹp hơn chim trống. Cu trống vai nở, ức nở trông oai vệ là những điểm so sánh đúng, còn những điểm không được đúng là– Mỏ của chim trống mái đều lớn bằng nhau, chỉ có một điểm hơi khác là phần mũi cưa nó có khác nhau.– Cườm Cu mái hột cườm to hơn, nhưng màu sắc lợt màu hơn, những lớp cườm đóng gần vai chim mái như nhòe ra không được rõ nét lắm. Trong khi đó thì cườm ở cổ Cu trống có nhiều hột nhỏ, màu sắc ở hột cườm và nền cườm đều tươi tắn rõ ràng.– Hai ghim hậu môn của chim thì đúng, nhưng cách này chỉ đúng khi ta quan sát ở chim đã sinh sản một hai lứa hoặc chim mái đã già. Còn với chim tơ chưa đẻ lứa trứng nào thì lỗ hậu môn còn khít thì làm sao phân biệt được? Chỉ những mái đã đẻ nhiều lứa trứng thì lỗ hậu môn của nó mới rộng ra. Trong khi chim Cu trống do cả đời không hề đẻ trứng, nên dù chim tơ hay chim già, hậu môn của nó cũng hẹp khít vậy, những nhận xét trên đây không thể đúng được một trăm phần trăm. Mà ngay hầu hết những nghệ nhân nuôi Cu gáy lâu năm cũng công nhận với chúng tôi là họ chỉ có khả năng phân biệt được giới tính trống mái của Cu gáy đội 50 phần trăm là nhiều. Việc chọn lựa chim bổi mà nuôi thường… phó mặc cho hên xui may mùa sinh sản của chim, có người chịu khó xách lục đi từ mờ sáng để hy vọng bẫy được Cu trống về nuôi, vì họ nghĩ rằng vào buổi sáng Cu trống không phải nằm tổ để thêm Cách Thử Tình Yêu Của Chàng Có Yêu Bạn Thật Lòng, Top 10 Cách Thử Lòng Bạn Trai Đùa Như ThậtXem thêm Cách Nấu Cari Vịt Xiêm Ngon Khó Cưỡng Đơn Giản, Cách Nấu Cà Ri Vịt Thơm Ngon Khó Cưỡng Đơn Giản Ý nghĩ này rất thông minh, thế nhưng con chim bắt được vào lúc sáng sớm, nói chung là buổi sáng cũng chưa hẳn đúng là Cu trống, vì nếu bầy con trong tổ chúng đã được vài tuần tuổi, lúc đó trống mái đều phải rời khỏi tổ đi tìm mồi nuôi con từ sáng sớm thì… sao đây? Con chim sa vào lục có thể là Cu mái đấy chứ? Cu mái vẫn gáy và siêng gáy kia mà!Trong những buổi trà dư tửu hậu, có nhiều nghệ nhân nổi hứng khoe rằng một cặp chim Cu bay trước mặt, ông ta có thể biết được con nào là cu trống, con nào là Cu mái! Nhiều người nghe nói như vậy, có vẻ cảm phục, nhưng cũng không tránh được sự…bán tín bán nghi. Nhưng, hỏi tác giả câu nói ấy thì không bao giờ được trả lời, ngoài nụ cười bí hiểm…Có thể vị ấy biết câu trả lời, nhưng “giấu nghề”, mà cũng có thể vị đó không biết trả lời thật, vì… cũng chỉ nghe lại người khác nói vậy mà ra, với một cặp chim Cu gáy bay trên trời, ta có thể đoán trúng được trăm phần trăm con nào trống, con nào mái. Quí vị cũng biết chỉ trong mùa sinh sản chim Cu mới kết cặp với nhau, và mùa này thì con mái đã có sẵn “ổ trứng” trong bụng nên nặng nề lắm. Khi bay cùng đôi, chim mái thường bay thấp, và chim Cu trống lúc nào cũng bay phía trên lưng chim mái với khoảng cách rất gần. Như vậy, con Cu bay trên đích thị là Cu trống, và con chim bay dưới là Cu loài Bồ câu cũng bay theo thứ tự “trống trên mái dưới” như là nói cho vui, chứ biết trống mái theo cách này thì đâu ích lợi gì cho việc chăn nuôi? Làm sao ta bắt được con bay trên mà loại bỏ con mái bay phía dưới?Bây giờ, xin trở lại việc phân biệt giới tính của chim Cu kinh nghiệm của chúng tôi thì phân biệt trống mái của chim Cu gáy cũng như cách phân biệt trống mái của chim Bồ câu mà thôi. Chúng ta không hơi sức đâu mà đi tìm hiểu từ đầu, từ mỏ, từ cườm, và mọi bộ phận khác trên thân chim để rồi phải đi đên kết luận…nửa tin nửa ngờ! Quí vị hãy quan sát thật kỹ ở phần mũi của chim Cu gáy thì sẽ thấy đích xác– Mũi chim Cu mái dù là quan sát trực diện cũng như nhìn nghiêng một bên, phần bán diện Profil đều xẹp và nhỏ. Vì vậy, ta thấy mỏ chim mái từ chót mỏ đến khóe miệng to bằng nhau.– Trong khi đó, quan sát phần mỏ của chim Cu gáy trống, quí vị sẽ thấy phần mỏ ở mũi to hơn, nở nang hơn, gồ cao hơn so với phần thân mỏ còn lại của nó. Nói cách khác, gốc mỏ thì to, và phần chót mỏ thì quan sát trực diện, ta sẽ thấy hai múi thịt trên mũi chim trống nở ngang ra hai bên. Còn nếu nhìn bán diện thì thấy hai múi thịt đó hơi gồ cao lên, vồng cao kinh nghiệm nuôi Cu gáy lâu năm cho chúng tôi biết rõ, phân biệt giới tính của Cu gáy cũng như phân biệt giới tính của chim Bồ câu mà thôi. Chỉ quan sát vào hai múi thịt trên mũi của chúng là phân biệt được trống độc giả nào đã từng nuôi chim Bồ câu sẽ nắm bắt được dễ dàng cách diễn tả của chúng tôi trên đây và thực hành với Cu gáy không khó khăn điều như quí vị đã từng biết, do cái mỏ Cu gáy quá thanh mảnh, mặt khác chim thường không chịu đứng yên cho để giúp ta quan sát tường tận trừ trường hợp bắt hẳn chim lên tay mà coi, vì vậy ta cần phải quan sát thật kỹ kẻo lầm. Cũng xin được nói thêm, với những giống chim khó phân biệt giới tính vì chúng có hình dáng bên ngoài giống nhau như chim Sơn Ca, Cu gáy, nhiều khi do cố quan sát thật kỹ nên mắt ta bị lóa đến nỗi cuối cùng chính mình cũng không tin tưởng lắm vào nhận định của mắt mình. Vì vậy, tốt hơn hết, ta cần phải theo dõi chúng nhiều lần. Cách hay nhất là bất chợt nhìn nó rồi phán đoán ngay. Cách sau này thường chính xác hơn, lại nhanh mái cũng gáy như Cu trống, nhưng giọng nó thanh hơn, lảnh lót hơn, nhỏ hơn. Trong mùa sinh sản, Cu mái rượng trứng, nếu nhốt chung với trống thì nó im hơi lặng tiếng cả ngày, nhưng nếu được nuôi riêng thì mái sẽ gáy cả ngày từ sáng đến tối, có mái gáy được giọng đôi, giọng ba, ai nghe cũng thích. Do Cu gáy mái siêng gáy nhất là trong mùa sinh sản lại gáy giọng giống chim cảnh trống, nên đâu mấy ai chịu tin đó là Cu mái!Cũng xin được nói thêm, các giống Cu gáy, Cu ngói, Cu xanh đều thuộc Bồ câu Columbiformes nên giới tính của chúng thể hiện trên múi thịt ở mũi cũng phải! Chỉ cần quan sát múi thịt này là pân biệt được chính xác một trăm phần trăm Cu gáy trống và mái ngay!
hungnguyen Thành viên Mới Tham gia ngày 6/6/11 Bài viết 232 Được thích 0 Điểm thành tích 0 Mình có chú cu gáy gốc Thái Bình nuôi được khoảng 5-6 tháng rồi. Nhưng mình thấy bộ cườm của nó khác với hầu hết những chú cu gáy mình đã từng gặp. Thường thì những chú cu khác những hạt cườm trắng nhìn rõ ràng trên nền đen, kể cả chú gáy khác ở nhà mình cũng vậy. Nhưng chú cu gáy mà mình nói có bộ cườm mà cườm trắng nó cứ xơ tướp, rối, nát. Nhìn chẳng rõ hạt cườm trắng gì cả. Con này khá siêng gáy, tiếng gáy to, mau và khá dạn người. Khi nghe tiếng cu gáy ở điện thoại rất hay gáy đáp lại, giọng thúc của nó khá nhanh và gắt so với con gáy kia ở nhà giọng trầm và ồm hơn - chắc là giọng thổ nhưng không biết Thổ gì. Tiếng của nó thì thấy người bán nói là giọng Thổ Pha. Vậy cho mình hỏi bộ cườm như vậy có bình thường không? Có ảnh hưởng gì đến cái hay, cái dở của con chim? Có đáng nuôi không? vanlinh Thành viên Mới Tham gia ngày 21/5/12 Bài viết 218 Được thích 0 Điểm thành tích 0 ề Hỏi về cu gáy cườm nát. Mình cũng mới tập chơi cu, hiểu biết còn rất hạn chế, nhưng theo các cao thủ chơi cu ở miền Nam thì người ta gọi đó là "cườm chẻ", rất hiếm gặp. Mình cũng có một con mồi đất có bộ cườm giống như bạn miêu tả. Những gì mình thấy được ở con cu của mình gồm siêng gáy, gáy được rất nhiều kiểu, lì, dạn người, đặc biệt là rất có duyên bắt bổi. Hiểu biết có hạn, mong bạn nhận được ý kiến từ các cao thủ! hungnguyen Thành viên Mới Tham gia ngày 6/6/11 Bài viết 232 Được thích 0 Điểm thành tích 0 ề Hỏi về cu gáy cườm nát. Chiều nay đi qua hàng chim thấy có chú cu gáy có bộ cườm khá đẹp, có rất nhiều cườm lửa hình như còn gọi là cườm vàng thì phải, ở ức có 1 túm lông xù lên chứ không mượt. Nó khá dữ chim, cứ xục vào lồng đòi mổ đánh con lồng bên cạnh, chỉ dàm đen rõ đến tận kóe mắt. Chỉ tiếc là nó có phao hồng chứ không phải phao xám. Mình hỏi người bán nói cu miền Nam, gáy gù tốt rồi và giá là 900k. Mình hỏi giá chuẩn là bao nhiêu người bán nói đúng 800k mới bán và nói rằng con này ở nhà rất siêng gáy, gù nhiều và đã bảo được. Mình nghĩ cha này nói sạo, sao rẻ vậy. Hỏi lại ông ấy nói mua được giá rẻ của 1 người thua độ Euro vừa rồi nên bán rẻ. Mình có việc nên đi giả bộ chê không mua, 1 lúc sau quay lai mặc cả thêm lần nữa. Cuối cùng mua em nó giá 750k. Em này thích quả cườm có nhiều cườm vàng và ức có túm lông xù. Xách túi giấy về bỏ vào lồng. Vậy mà kè lồng gù đấu ngay với con gáy nhà làm con kia tịt ngóm. Đã thế em nó gáy lại thừa 2 tiếng, tức là cúc cù cu..... cu cu, và cũng hay đảo giọng lúc gáy 3 tiếng, lúc 4, lúc 5 tiếng. Rất siêng gù và gáy. Về nhà nó gáy suốt từ chiều đến giờ. Nếu chưa có nick trên thì dùng nick facebook bình luận nhé
1. Chim cu gáy cườm,chim cu đất là loại được ưa chuộng nhiều nhất hiện nay, nuôi làm cảnh và đi bẩy, đấu đá… Streptopelia chinensis tigrina Temminck Columba tigrina Temminck, 1810 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim cu gáy lúc trưởng thành Đầu, gáy và mặt bụng nâu nhạt hơi tím hồng, đỉnh và hai bên đầu phớt xám, cằm và họng có khi trắng nhạt, đùi, bụng và dưới đuôi màu hơi nhạt hơn. Lông hai bên phần dưới cổ và lưng trên đen có điểm tròn trắng ở mút tạo thành một nửa vòng hở về phía trước cổ. Mặt lưng nâu, các lông có viền hung nhạt rất hẹp. Lông bao cánh nhỏ và nhỡ phía trong nâu nhạt với thân lông đen nhạt, các lông phía ngoài xám tro. Lông cánh nâu đen có viền xám rất hẹp ở mút và mép ngoài. Lông đuôi giữa nâu thẫm, các lông hai bên chuyển dần thành đen với phần mút lông trắng. Mắt nâu đỏ hay nâu với vòng đỏ ở trong. Mép mí mắt đỏ. Mỏ đen. Chân đỏ xám. Kích thước Đực cánh 140 – 166, đuôi 140 – 170; giò 25 – 30; mỏ 12 – 20mm. Cái cánh 140 – 160; đuôi 135 – 170; giò 21 – 31; mỏ 14 – 21mm.. Phân bố Cu gáy phân bố ở Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai và Xumatra. Việt Nam loài này có ở khắp các vùng, không cách xa những chỗ có trồng trọt. 2. Chim ngu ngói, chim cu lửa Streptopelia tranquebarica humilis Temminck Columba humilis Temminck, l824 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim cu ngói lúc trưởng thành Đầu và hai bên cổ xám. Cằm hung nâu nhạt. Họng và trước cổ hung nảu nhạt hơi phớt tím. Phía dưới cổ có nửa vòng đen hẹp, hở phía trước lưng, vai, lông bao cánh và lông cánh tam cấp nâu tím. Phía dưới lưng, hông và trên đuôi xám. Lông đuôi giữa xám phớt nâu, các lông hai bên có phần gốc xám đen và phần mút xám nhạt chuyển dần thành trắng. Lông ngoài cũng có phiến ngoài hoàn toàn trắng. Lông cánh nâu đen có viền xám rất hẹp ở mép ngoài. Mặt bụng hung nâu nhạt. Dưới đuôi trắng nhat. 3. Chim cu luồng Chalcophaps indica indica Linnaeus Columba indica Linnaeus, 1758 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Trán và dải lông mày trắng. Đỉnh đầu và gáy xám tro. Hai bên đầu và cổ, họng, vai và phần trên ngực hung, nâu, càng xuống bụng màu này càng nhạt dần. Phần trên lưng, vai, lông, bao cánh và các lông cánh trong cùng lục sáng, có ánh đồng. Mép cánh có điểm trắng. Phần dưới lưng màu đồng với hai dãi ngang nhỏ trắng xám nhạt. Hông và trên đuôi xám thẫm. Lông đuôi giữa đen, hai hay ba đôi ở hai bên xám với một dãi gần mút den. Chim cái Không có dãi trắng ở trán và lông mày chuyển thành xám, đầu phớt nâu, mép cánh không có điểm trắng hay điểm trắng không rõ. Dải trắng ở phần dưới lưng không rõ. Mắt nâu thẫm. Mỏ đỏ với gốc mỏ nâu nhạt. Da mi mắt xám. Chân đỏ tím phớt xám. Kích thước Cánh 135 – 151; đuôi 70 – 75; giò 24 – 27; mỏ 14 – 17 mm. Phân bố Cu luồng phân bố ở Đông nam châu Á Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Nam Trung Quốc Campuchia, Mã Lai, Inđônêxia, Tân Ghinê và Philipin. Việt Nam loài này có ở khắp cả các vùng rừng từ Nam chí Bắc. 4. Chim cu sen gần như cu gáy, nhưng cườm ít hơn và hoa văn trên người lại đẹp hơn Streptopelia orientalis orientalis Latham Columba orientalis Latham, 1790 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim trưởng thành Trán và bên đầu xám nâu nhạt. Họng và cằm hung nâu nhạt. Đỉnh đầu xám tro. Gáy, trên cổ, vai và phần trên lưng nâu, các lông ở trên lưng hơi phớt hung ở mép lông. Mỗi bên cổ có một vệt gồm các lông nhỏ đen có viền xám xanh ở mút lông. Lông bao cánh nhỏ nâu đen nhạt viền hung vàng cam; lông bao cánh lớn xám. Lông cánh đen nhạt có viền hung nâu nhạt. Phần giữa và dưới lưng, hông và trên đuôi xám, hơi viền nâu. Lông đuôi đen nhạt, phần cuối mỗi lông đuôi trắng nhạt, vệt trắng này lớn dần từ các lông giữa đếc các lông ngoài. Ngực hung hơi tím, phớt xám lục ở phía trên. Bụng trắng nhạt. Sườn và dưới đuôi xám nhạt. Dưới cánh xám. Mắt nâu thẫm hay đỏ. Mi mắt hồng có viền da trần xám nhạt. Mỏ xám nâu, chuyển thành đen nhạt ở gốc mỏ. Chân đỏ. Kích thước Cánh đực 175 – 190. cái 131 – 190; đuôi 115 – 122, giò 16 – 20; mỏ 15 – 18mm. Phân bố Chim Cu sen phân bố ở phần đông châu Á từ vùng, Đông nam Xibêri, Đông Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản đến Bắc Việt Nam. Việt Nam có thể gặp loài này ở khắp các vùng nhưng vào mùa sinh sản chỉ gặp ở gần biên giới phía Bắc Cao Bằng. 5. Chim cu xanh đầu xám Treron vernans griseicapilla Schlegel Treron griseicapilla Schlegel, 1863 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Giống chim đực loài Treron bicincta, chỉ khác là đầu xám nhạt, cằm, họng và cổ màu !ục nhạt tím, dải xám ở các lông đuôi chỉ rộng khoảng 2 mm. Chim cái Rất giống loài Treron bicincta nhưng dải xám ở gần mút đuôi hẹp. Mắt vòng ngoài vàng, vòng trong xanh. Mỏ xám, gốc mỏ xanh. Chân đỏ hơi tím. Kích thước Cánh đực 146 – 155, cái 137 – 153mm. Phân bố Cu xanh đầu xám phân bố ở Nam Miến Điện, Mã Lai, Philipin, Campuchia và Việt Nam. Việt Nam loài này có ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Biên Hòa, Tây Ninh và Phú Quốc. 6. Chim cu xanh đuôi đen Treron pompadora phayrei Blyth Osmotreron phayrei Blyth, 1862 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Trán và trước mắt xanh lục vàng nhạt. Đỉnh đầu và gáy xám, hai bên đầu hơi thẫm hơn. Phía trên cổ và trên vai xanh lục. Lưng, vai và lông bao cánh nhỏ nâu. Lưng dưới, hông và trên đuôi xanh lục, hơi nhạt hơn so với phần trên lưng. Các lông đuôi giữa xanh lục có mút lông xanh, các lông khác chuyển dần thành màu đen từ trong ra ngoài. Các lông bao cánh nhỡ và lớn đen, viền vàng chuyển thành xám ở phiến lông trong. Lông cánh đen chuyển thành xám ở các phiến lông trong, các lông cánh sơ cấp viền trắng vàng nhạt còn các lông thứ cấp có mép vàng rộng. Cằm và họng xanh lục. Phần dưới ngực, bụng và sườn xanh lục nhạt, phần quanh hậu môn và dưới đuôi nâu, có điểm vàng. Nách và dưới cánh xám, phớt xanh lục. Chim cái Các lông màu nâu ở mặt lưng và màu cam ở mặt bụng được, thay bằng màu xanh lục. Mắt vòng ngoài hồng, vòng trong xanh nhạt. Da quanh mắt xanh nhạt hay xám tro nhạt. Mỏ trắng xanh nhạt, mỏ dưới nhạt hơn, gốc mỏ hơi thẫm. Chân đỏ. Kích thước Cánh đực 143 – 165, cái 145 – 160 mm. Phân bố Loài cu xanh đuôi đen phân bố ở đông Ấn Độ, Axam, Miến Điện, Lào và Việt Nam. Việt Nam loài này có nhiều ở Nam bộ An Bình. Chúng thường hay đậu trên các bụi tre. 7. Chim cu xanh đuôi nhọn Treron apicauda lowei Delacour et Jabouille Sphenocercus apicauda lowei Delacour et Jabouille, 1924 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Mặt lưng màu lục phớt vàng, phần trên lưng và vai phớt xám, phần dưới lưng và hông phớt vàng cam, Mặt bụng vàng cam lục, phần cổ, ngực thiên về vàng cam, sườn thiên về lục. Dưới đuôi hung. Lông cánh đen có viền vàng. Ngang cánh có vệt vàng do mút của các lông bao cánh lớn tạo thành. Lông đuôi xám, có phần gốc lông đen. Chim cái Gần giống chim đực, chỉ khác là không có màu vàng cam ở ngực và lưng. Phần trên lưng cũng không có màu xám. Kích thước Cánh 144 – 165; đuôi 162 – 230; giò 20 – 22; mỏ 18 – 22 mm. Phân bố Phân loài cu xanh đuôi nhọn này phân bố ở Lào và Việt Nam. Việt Nam đã bắt được loài này ở trung Trung bộ Vĩnh Linh, Quảng Trị, Huế. 8/ Chim cu xanh bụng trắng Treron sieboldii murielae Delacour Sphenurus sieboldii murielae Delacour, 1927 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Mặt lưng màu lục xám, trán hơi phớt vàng cam, vai và lưng trên phớt xanh, hông, trên đuôi và đuôi phớt đen. Các lông bao cánh nhỏ và nhỡ nâu gụ tươi tạo thành đám nâu gụ lớn ở cánh. Họng và phần dưới ngực vàng phớt lục. Ngực và phần dưới cổ vàng cam phớt hung nhạt. Bụng và dưới đuôi trắng có vệt lục hình mũi tên. Chim cái Màu lục thẫm hơn, đầu xỉn hơn, mặt bụng nhiều màu lục, ít màu vàng và không có màu hung. Ở cánh không có đậm nâu gụ. Mắt vòng trong xanh lơ, vòng ngoài hồng. Mỏ xanh lơ chóp mỏ xanh xám. Da quanh mắt và trước mắt xanh lơ tươi. Chân đỏ thẫm phớt tím. Kích thước Cánh đực 171 – 187, cái 164 – 180; đuôi 123; giò 22; mỏ 20mm. Phân bố Cu xanh bụng trắng phân bố ở miền Bắc Việt Nam từ biên giới Trung Quốc cho đến Thừa Thiên. So với các loài khác, thì loài cu xanh này hiếm. 9. Chim cu xanh cổ nâu Treron fulvicollis fulvicollis Wagler Columba fulvicolis Wagler, 1827 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Đầu, cổ và ngực trên hung nâu, mặt trên thẫm, mặt dưới hơi nhạt và phớt vàng, chuyển dần thành vàng cam nâu ở phần dưới ngực. Vai, lưng và lông bao cánh nhỏ nâu đỏ. Hông xám đen, chuyển thành xanh lục vàng ở trên đnôi. Lông đuôi giữa xanh lục vàng thẫm, các lông khác xám vàng với một dải đen và xám ở mút lông. Bụng xanh lục vàng lẫn xám; màu này thay đổi tùy con. Sườn xám, chuyễn thành xám đen ở phần sau. Lông ở đùi và quanh hậu môn vằn lẫn xám. Dưới đuôi hung nâu, một số lông dài, có điểm xanh lục ở giữa lông. Lông cánh sơ cấp đen, có viền vàng nhạt, lông cánh thứ cấp, lông bao cánh lớn và nhỡ đen viền vàng. Dưới cánh và nách xám. Mắt hung hồng. Da quanh mắt xám lục. Mỏ phần ngoài đỏ thẫm, phần gốc xanh pha lục nhạt. Chân hồng tươi. Chim cái Các lông hung nâu và nâu đỏ ở mặt lưng thay thế bằng xanh lục vàng thẫm, lẫn ít xám ở bụng. Đỉnh đầu cho đến gáy xám. Cằm thỉnh thoảng có vệt hung nhạt, dưới đuôi hung nâu nhạt có vết xanh lục ở phần gốc lông. Mắt vòng ngoài hồng, vòng trong xanh nhạt. Chân có màu nhạt hơn chân chim đực. Kích thước Cánh đực 136 – 148. cái 142; đuôi 90; giò 20; mỏ 20 mm. Phân bố Loài cu xanh cổ nâu phân bố ở Tênaxêrim, Mã Lai, Inđônêxia và Việt Nam, Thài Lan Việt Nam loài này có nhiều ở Nam Bộ. 10. Chim cu xanh chân vàng Treron phoenicopterus Ogilvie – Grant Crocopus annamensis Ogilvie – Grant, 1909 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim trưởng thành Trán, trước đỉnh đầu, cằm, họng, bên đầu và trước ngực xanh lục vàng nhạt, chuyển dần thành vàng nhạt ở phần tiếp theo. Phía sau đỉnh đầu, gáy và sau cổ xám tro thẫm, chuyển dần thành xám xanh lục vàng thẫm ở phần dưới cổ. Một dải hẹp xám nhạt ở vai. Hai bên cổ lục vàng pha nâu nhạt. Lưng, hông và trên đuôi lục vàng xám nhạt. Lông bao cánh nhỏ nâu tím nhạt; các lông bao cánh khác lục vàng xám, các lông bao cánhlớn viền vàng nhạt với một dải gần mút lông đen. Lông cánh đen hơi phớt lục và viền vàng. Lông cánh tam cấp xanh lục vàng xám nhạt. Dưới cánh xám sáng. Lông đuôi vàng phớt lục, với mép phiến lông trong xám và khoảng nửa phía trong đen. Dưới đuôi nâu. Ngực dưới và sườn xám sáng, giữa bụng và đùi vàng nghệ. Xung quanh hậu môn vàng nhạt có điểm xám lục. Mắt vòng ngoài vàng hồng, vòng trong xanh nhạt. Da gốc mỏ và quanh mắt xanh pha lục nhạt. Chóp mỏ xám sừng mỏ khỏe, phần chóp mỏ sừng chiếm khoảng nửa chiều dài mỏ, cong xuống. Chân vàng tươi. Kích thước Cánh đực 177 – 193, cái 174 – 185; đuôi 100 – 110; giò 17 – 21; mỏ 18 – 21mm. Phân bố Loài cu xanh này phân bố ở Thái Lan, hạ Lào, và Nam Việt Nam. Việt Nam đã bắt được loài này ở Ninh Thuận và Kontum. 11. Chim cu xanh khoang cổ Treron bicincta praetermissa Robinson et Kloss Treron praetermissa Robinson et Kloss, 1921 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Đầu, họng, trước và bên cổ xanh lục vàng nhạt sáng. Gáy và sau cổ phớt xám tro. Lưng vàng hung, phần dưới lưng chuyển thành xanh lục rồi thành lục vàng ở trên đuôi. Lông bao cánh xanh lục vàng, các lông bao cánh lớn viền vàng tươi. Lông cánh đen, các lông cánh thứ cấp viền vàng. Lông dưới cánh xám. Lông đuôi giữa xám thẫm, phớt vàng ở phần gốc lông. Các lông đuôi khác có một dải gần mút xám, rộng khoảng 20 mm. Dưới đuôi hung nâu. Phần trên ngực có một dải màu lục nhạt tím, tiếp theo là một vệt khá lớn màu vàng cam hơi phớt hung. Phần dưới ngực xanh lục vàng. Giữa bụng vàng, xung quanh đuôi và đùi vàng phớt lục. Chim cái Không có màu lục nhạt tím và vàng cam ở ngực. Các phần này hoàn toàn màu xanh lục vàng. Dưới đuôi và phần sau bụng màu nhạt hơn. Mắt vòng ngoài hồng hay đỏ thẫm vòng trong xanh nhạt. Da quanh mắt và da gốc mỏ xanh. Chóp mỏ xám sừng. Chân đỏ thẫm. Kích thước Cánh đực 135 – 164, cái 140 – 164; đuôi 90 – 93; giò 16 – 18; mỏ 15 – 18 mm. Phân bố Loài cu xanh khoang cổ phân bố từ Ấn Độ đến Hải Nam. Việt Nam loài này có ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Khánh Hòa, Ninh thuận, Biên Hòa và Thủ Dầu Một. 12. Chim cu xanh mỏ gặp Treron curvirostra nipalensis Hodgson Toria nipalensis Hodgson, 1836 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Trán và đỉnh đầu xám tro. Gáy, hai bên và sau cổ xanh lục xám. Lưng và lông bao cánh nhỏ nâu gụ. Ngực, bụng và trên đuôi xanh lục vàng. Lông bao cánh lớn đen hơi xanh, viền vàng tươi. Các lông cánh sơ cấp và thứ cấp đen, cổ viền chỉ vàng rất hẹp. Lông cánh tam cấp lục vàng có mép viền vàng. Dưới cánh xám. Lông đuôi giữa lục vàng thẫm, các lông đuôi hai bên xám có mép ngoài phớt lục vàng và có vệt đen rộng ngang giữa lông. Dưới đuôi hung vàng. Dưới bụng, lông xung quanh hậu môn và đùi màu lục vàng, có vệt trắng ở mút lông. Chim cái Không có màu nâu gụ. Mặt lưng toàn màu lục vàng thẫm. Dưới đuôi trắng có nhiều vằn lục vàng nhạt. Mắt vòng ngoài vàng, vòng trong xanh nhạt. Da quanh mắt xanh nhạt. Gốc mỏ đỏ, chóp mỏ xám sừng phớt xanh hay vàng. Chân đỏ. Kích thước Cánh đực 137 – 153, cái 135 – 152; đuôi 85 – 90; giò 18 – 23; mỏ 15 – 18 mm. Phân bố Cu xanh mỏ quặp pnân bố ở Nêpan, Axam, Miến Điện đến Tênaxêrim, Thái Lan, Lào, Campuchia, Đông nam Trung Quốc và Việt Nam. Việt Nam về mùa hè loài này có ở hầu khắp các rừng cây rậm rạp, về mùa đông gặp cả ở vùng đồng bằng chỗ có nhiều cây to, nhất là si và đa. 13. Chim cu xanh nhọn đuôi Treron apicauda laotianus Delacour et Jabouille Sphenurus apicauda laotianus Delacour et Jabouille, 1926 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Gần giống với Treron apicauda lowei chỉ khác là đầu chuyển sang màu lục xám của lưng và đuôi, dưới đuôi nhiều màu hung, rõ nhất là hông ít màu vàng. Mắt hồng, vàng cam hay xanh. Mỏ xanh, chóp mỏ xám. Da quanh mắt và trước mắt xanh. Chân đỏ. Kích thước Cánh đực 155 – 170, cái 148 – 162; đuôi đực 175 – 190, cái 182 – 187; giò 19 – 21; mỏ 19 – 21 mm. Phân bố Phân loài này phân bố ở Lào và Việt Nam. Ở Việt Nam bắt được loài này ở rừng Thanh Hóa và Tây Bắc ở gần biên giới Lào – Việt. 14. Chim cu xanh sáo Treron sphenurus delacouri Biswas Sphenurus delacouri Biswas, 1950 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Mặt lưng, cổ, đầu và ngực xanh lục phớt xám, rõ nhất ở phần trên lưng, đuôi và trên đuôi phớt vàng lục. Bụng vàng hung chuyển thành hung vàng cam ở dưới đuôi. Góc cánh và lưng trên có vệt nâu lớn. Lông cánh đen phớt lục có viền vàng nhạt. Lông đuôi lục xám có vệt đen ở hai bên. Chim cái Không có màu nâu ở góc cánh và lưng. Riêng lưng, có phớt xám nhạt. Cổ, đầu, ngực không có màu xám. Nhìn chung màu hơi vàng hơn chim đực. Mắt vòng ngoài đỏ, vòng trong xanh nhạt. Da ở gốc mỏ, trước và quanh mắt xanh nhạt. Chóp mỏ xám. Chân đỏ. Kích thước Cánh đực 159 – 1710, cái 150 – 167; đuôi đực 117 – 128, cái 108 – 118; giò 17 – 18; mỏ 16 – 19 mm. Phân bố Phân loài cu xanh sáo này phân bố Hạ Lào, Trung bộ và Nam bộ. Các vật mẫu đã bắt được ở Nghệ An Phủ Quỳ, Thừa Thiên, Kontum Đắc Tô và Thủ Dầu Một. 15. Chim cu xanh sáo vân nam Treron sphenurus delacouri Biswas Sphenurus delacouri Biswas, 1950 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Phân loài cu xanh sáo Vân Nam này khác phân loài Treron sphenurus delacouri ở chỗ mắt và đuôi lục xám mà không phải lục vàng; lông cánh đen xám phớt nâu mà không phải đen phớt lục. Nhìn chung Loài này có màu thẫm hơn và phớt xám. Kích thước Cánh đực 113mm. Phân bố Phân loài cu xanh sáo này phân bố ở Vân Nam Trung Quốc. Việt Nam chỉ mới bắt được Loài này ở Mường Muôn Lai châu. 16. Chim cu xanh seimun Treron seimundi modestus Delacour, 1926 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Mô tả Chim đực trưởng thành mặt lưng, đầu, cổ và ngực màu lụa, lưng và bên cổ có phớt xám, hông và trên đuôi phớt vàng. Bụng trắng, dưới đuôi vàng họi có vệt lục. Lông cành đen, viền vàng, gốc cánh có vệt tím. Lông đuôi có gốc xám và mút đen. Chim cái trưởng thành không có vệt sáng ở góc cánh, lưng ít xám hơn. Mắt có vòng ngoài vàng cam, vòng trong xanh nhạt. Trước và quanh mắt da trần màu xanh nhạt. Mỏ xanh nhạt, Chóp mỏ xám. Chân đỏ tím. Sinh học Chưa có số liệu. Nơi sống và sinh thái Nơi sống là thích hợp là các kiểu rừng thường xanh. Phân bố Việt Nam Trung và Nam Trung bộ. đã gặp ở Thừa Thiên – Huế vườn quốc gia Bạch Mã Trong những năm gần đây. Thế giới Miền trung Thái Lan chỉ quan sát thấy 1 lần và Lào. Tình trạng Nguyên nhân chủ yếu là mất nơi ở tự nhiên bị mất đi do mất rừng và các nguyên nhân khác như săn bắt nhiều nên số lượng giảm sút nghiêm trọng. Rất hiếm. Mức độ đe dọa bậc R. Đề nghị biện pháp bảo vệ Cần phải tiếp tục điều tra thêm về hiện trạng và giới hạn vùng phân bố của chúng về phía Nam. Trước hết cần quản lý, bảo vệ tốt các quần chủng còn sống sót ở vườn quốc gia Bạch Mã. Tuyệt đối cấm săn bắt để lấy thịt. cu gầm ghì đá Columba livia Gmelin Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Mô tả 32 cm. Bộ lông da dạng, nhưng thông thường có màu xám xanh với 2 vằn ở cánh rộng, màu đen. Phân bố Có thể có ở khắp các vùng trong nước, nhưng thiếu thông tin. Tình trạng Không rõ tính chất cư trú, có thể đây là loài định cư. Nơi ở Thành phố, làng mạc, núi đá và vùng trồng trọt. 18. Chim gầm ghì đầu hung Macropygia ruficeps engelbachi Delacour Macropygia ruficeps engelbachi Delacour, 1928 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Mặt lưng nâu gụ thẫm chuyển thành nâu hung nhạt ở đầu, cổ và mặt bụng. Ở ngực các lông có phớt trắng hung ở mút lông. Hai bên cổ và vai hung nhạt có ánh thép. Cằm trắng nhạt. Lông cánh nâu thẫm, các lông cánh tam cấp hung nhạt ở phiến trong. Trên đuôi phớt hung. Lông đuôi giữa có phần mút lông nâu thẫm, các lông hai bên có phần gốc hung nâu, giữa lông nâu thẫm và mút lông có dải hẹp màu nhạt hơn so với phần gốc lông. Dưới đuôi nâu gụ. Chim cái Đầu kém hung hơn chim đực và nhìn chung thẫm hơn không có ánh thép. Lông ở ngực nâu đen nhạt có mút hung làm cho phần ngực trông như màu hung điểm đen. Mép các lông ở phần trên lưng viền nâu nhạt hẹp. Mắt xám. Mỏ nâu. Chân nâu đỏ nhạt. Kích thước Cánh 142 – 154; đuôi 165 – 180; giò 16 – 18; mỏ 12 – 14mm. Phân bố Loài gầm ghì này phân bố ở Lào, Philippine và Việt Nam. Việt Nam loài này có ở vùng Tây Bắc. 19. Chim gầm ghì lưng nâu Ducula badia griseicapilla Walden Ducula griseicapilla Walden, 1875 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim trưởng thành Đầu, trước cổ, ngực, bụng, sườn, nách và dưới cánh xám tro nhạt phớt nâu; họng và cằm trắng nhạt; phía trên và hai bên cổ phớt tím. Lưng, vai, lông bao cánh nhỏ và nhỡ nâu tím. Hông và trên đuôi xám thẫm. Khoảng hai phần ba gốc đuôi đen, phần còn lại xám nâu nhạt. Lông cánh đen trừ các lông tam cấp và các lông bao cánh lớn nâu thẫm. Mắt trắng vàng nhạt. Da quanh mắt xám đỏ. Chóp mỏ xám, giữa mỏ nâu và gốc mỏ đỏ tươi. Chân đỏ. Kích thước Cánh 200 – 251; đuôi 190 – 210; giò 24 – 26; mỏ 19 – 21mm. Phân bố Loài gầm ghì này phân bố ở Miến Điện, Thái Lan và Đông Dương. Việt Nam đã tìm thấy loài này ở Tam Đảo, Khe Sanh, đèo Hải Vân, Kontum và Đà Lạt. 20. Chim gầm ghì lưng xanh Ducula aenea sylvatica Tickell Columba sylvatica Tickell, 1833 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim trưởng thành Đầu, cổ, ngực và bụng xám tro nhạt, đôi khi phớt hồng tím; họng và cổ hơi nhạt hơn. Lưng, hông, trên đuôi và bao cánh xanh lục đen có ánh đồng. Dưới đuôi nâu thẫm. Mắt đỏ. Mỏ xám. Chân đỏ. Da gốc mỏ và quanh mắt xám nhạt. Kích thước Cánh 205 – 240; đuôi 140 – 170; giò 22 – 28; mỏ 16 – 22mm. Phân bố Gầm ghì lưng xanh phân bố ở Nêpan, Xickim, Bengan, Axam, Miến Điện, Thái Lan và Đông Dương. Việt Nam loài này có ở Biên Hòa, Tây Ninh, Kontum, Thừa Thiên, Quảng Trị và Côn Lôn. 21. Chim gầm ghì trắng Ducula bicolor bicolor Scopoli Columba bicolor Scopoli, 1896 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim trưởng thành Lông cánh xám thẫm gần đen. Các lông đuôi giữa có một dải ở mút đen, rộng khoảng 50mm. Dải đen này càng chuyển ra các lông ở hai bên càng hẹp dần. Lông dưới đuôi đôi khi viền đen, hay đen ở mút lông. Phần còn lại của bộ lông trắng ngà, thỉnh thoảng phớt vàng. Mắt nâu thẫm. Mỏ xám xanh. Chân xanh nhạt. Kích thước Cánh 218 – 231; đuôi 125 – 135; giò 26 – 29; mỏ 23 – 26mm. Phân bố Loài gầm ghi trắng này thường chỉ gặp ở các đảo như Andaman, Nicôba, các đảo quanh Mã Lai đến gần Ghinê. Việt Nam chỉ gặp loài này ở Côn Lôn. 22. Chim gầm ghì vằn Macropygia unchall minor Swinhoe Macropyga tusalia var minor Swinhoe, 1870 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Chim đực trưởng thành Đỉnh đầu, gáy và phần trên lưng nàu hung có ánh thép lục, hồng. Trán, mặt, cằm và trước cổ hung nâu nhạt, có lấm tấm nâu. Lưng, lông bao cánh, hông và trên đuôi nâu đen có nhiều vằn ngang hung nâu thẫm. Ngực nâu, vằn hung nâu nhạt có ánh thép, càng xuống phía bụng và dưới đuôi màu vằn hung và nâu nhạt dần. Lông cánh sơ cấp và thứ cấp đen nâu nhạt. Lông cánh tam cấp có vằn như ở lưng. Chim gầm ghì vằn bố Các lông đuôi giữa nâu đen có vằn hung nâu thẫm ở lưng, càng ra hai bên vằn càng ít dần mà chuyển thành các đám lớn theo thứ tự từ mút lông vào là xám, nâu, đen, xám hoặc nửa ngoài xám, nửa trong hung thẫm. Lông ngoài cũng có phần gốc trắng nhạt và hung. Chim cái Khác chim đực ở chỗ đầu thẫm hơn và có vằn đen và nâu hung, ánh thép nhạt hơn. Mắt lớn có ba vòng vòng ngoài hồng. Vòng giữa đen, vòng trong vàng, Mỏ đen. Chân đỏ tươi. Chim mẹ và con Kích thước Cánh đực 165 – 190, cái 165 – 180; đuôi 170 – 190; giò 18 – 20; mỏ; 16 – 17 mm. Phân bố Gầm ghì vằn phân bố ở Himalai, Miến Điện, Thái Lan và Đông Dương. Việt Nam đã gặp loài này ớ Vĩnh Phúc Tam Đảo, Bắc Cạn, Lai châu và Nam Trung bộ. 23. Bồ câu nicola Caloenas nicobarica nicobarica Linnaeus, 1758 Họ Bồ câu Columbidae Bộ Bồ câu Columbiformes Mô tả Chim trưởng thành nhìn rất đẹp, có các lông nhọn mọc quanh cổ với kích thước khác nhau. Bộ lông màu tối có ánh thép xanh, lục và màu đồng tương phản với màu trắng của lông đuôi và dưới đuôi. Đuôi rất ngắn. Mắt nâu. Mỏ xám đen. Chân đỏ tối. Sinh học Thức ăn là hạt và cỏ cây. Tổ làm đơn giản cách xa mặt đất 3 – 10m. Đẻ 1 trứng. Nơi sống và sinh thái Đây là loài bồ câu đặc biệt chỉ sống và làm tổ ở ngoài đảo nhỏ, thường gặp ở rừng vắng, kiếm ăn trên mặt đất. Thỉnh thoảng đậu trên cây. Đi lẻ, đôi hay đàn bé. Làm tổ tập đoàn trên cùng một loại cây. Phân bố Việt Nam Côn Đảo. Thế giới đảo Andaman, Nicoba đến quần đảo Malaixia, Salomon và Timor, Philíppin. Giá trịLà loại đặc sản trong khu vực. Có giá trị khoa học và thẩm mỹ. Tình trạng Nơi ở bị thu hẹp và trước đây thường bị săn bắt. Số lượng còn lại không nhiều. Mức độ đe dọa bậc T. Đề nghị biện pháp bảo vệ Phát triển số lượng của chúng ở Côn Đảo là công việc trước mắt cần quan tâm. Chú ý giáo dục nhân dân trong đảo ý thức bảo vệ, không săn bắt và phá hoại tổ. About Post Author Lê Tuân administrator Chi tiết về dịch vụ xin liên hệ CÔNG TY TNHH ĐỊNH GIÁ BẾN THÀNH – HÀ NỘI. Văn phòng 781/C2 Lê Hồng Phong, Q. 10, tp. Hồ Chí Minh. Điện thoại – Website
cu gáy cườm nát